Bài thuốc cổ được người dân sử dụng phổ biến trong chăm sóc sức khỏe

Bài thuốc cổ có lịch sử hơn nghìn năm đang được nói tới chính là bài thuốc Tứ vật thang.

Trong phương thuốc cổ này có 4 vị thuốc chính; dùng đương quy là chủ vị để chữa huyết (bổ và ôn), sinh địa (hay thục địa) và bạch thược là để bổ âm huyết và liễm âm phận. Xuyên khung để hỗ trợ tính ôn bổ của ba vị trên.

Hàm lượng các vị thuốc trong bài thuốc được phối hợp như sau: Xuyên khung 12g, đương quy 15g, bạch thược 12g, thục địa 15g, sắc uống hàng ngày lúc nóng.

Các vị thuốc phối hợp chặt chẽ với nhau tạo nên công dụng vừa dưỡng huyết vừa hoạt huyết hóa ứ; nổi bật là tác dụng làm giãn mạch máu, giảm sức cản thành mạch, ức chế ngưng tập tiểu cầu và chống hình thành huyết khối, từ đó cải thiện tình trạng vi tuần hoàn, làm tăng lượng máu nuôi dưỡng các cơ quan tim, đặc biệt là tim và não, phòng chống tích cực tình trạng thiểu năng tuần hoàn não, tuần hoàn vành và tuần hoàn ngoại vi.

Bài thuốc được ứng dụng phổ biến trong dân gian giúp chăm sóc sức khỏe cho người dân, vừa hoạt huyết, bổ huyết, thông mạch.

Tính dược của bài thuốc cổ Tứ vật thang

Đương quy vị ngọt cay, tính ấm, mùi thơm, đi vào ba kinh tâm, can, tỳ. Vị thuốc đương quy có tác dụng bổ huyết, làm huyết lưu thông. Y học cổ truyền dùng đương quy như đầu vị bổ huyết, chữa suy nhược, các trạng thái mệt mỏi của cơ thể, đau lưng, mỏi gối, phụ nữ kinh nguyệt không đều.

Vị thuốc đương quy có tác dụng bổ huyết, làm huyết lưu thông (Ảnh minh họa)

Thục địa là sinh địa đem đồ chính và sao tẩm thành. Thục địa có vị ngọt, tính hơi ôn vào 3 kinh tâm, can, thận, có tác dụng bổ thận dưỡng âm, làm đen râu tóc, chữa huyết hư, kinh nguyệt không đều, tiêu khát, âm hư, ho suyễn. Về y học hiện đại, dựa theo nhiều nghiên cứu của Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên thì sinh địa có tác dụng làm hạ đường huyết, ức chế adrenalin, làm mạnh tim và lợi tiểu. Ngoài ra còn có tác dụng cầm máu.

Thục địa có vị ngọt, tính hơi ôn vào 3 kinh tâm, can, thận (Ảnh minh họa)

Xuyên khung vị cay, tính ấm có mùi thơm, vào ba kinh can, đởm và tâm bào, có tác dụng hành khí, hoạt huyết, trừ phong, giảm đau. Đông y dùng xuyên khung để dưỡng huyết, điều kinh, chữa phong thấp, nhức mỏi xương khớp, cảm mạo, nhức đầu, bụng đầy trướng hoặc bị ung nhọt. Nghiên cứu hiện đại cho biết, xuyên khung có tác dụng ức chế thần kinh trung ương trên vật thí nghiệm, liều cao làm tê liệt cơ tim, gây dãn mạch ngoại biên, làm hạ huyết áp. Xuyên khung còn có tác dụng kháng sinh, ức chế nhiều loại vi khuẩn như thương hàn, phó thương hàn, phẩy khuẩn tả, trực khuẩn lỵ và cả vi khuẩn mủ xanh. Kiêng kỵ với người âm hư hỏa vượng và phụ nữ có thai.

Xuyên khung có tác dụng hành khí, hoạt huyết, trừ phong, giảm đau (Ảnh minh họa)

Bạch thược vị chua, hơi đắng, lạnh đi vào ba kinh tỳ, phế, can, có tác dụng dưỡng huyết, liễm âm, bình can, chỉ thống (giảm đau). Đông y dùng bạch thược để chữa chứng âm huyết hư, phát sốt, ra mồ hôi trộm, đau bụng, tả lỵ tức ngực, thấy kinh đau, kinh không đều, ho đờm, tiểu tiện khí. Nghiên cứu dược lý cho biết, nước sắc bạch thược gây tăng nhu động dạ dày, ruột, liều cao gây ức chế. Bạch thược có tác dụng kháng sinh đối với nhiều chủng vi khuẩn như thương hàn, lỵ Shiga, phẩy khuẩn tả, bạch hầu, phế cầu khuẩn...

Bạch thược có tác dụng kháng sinh đối với nhiều chủng vi khuẩn (Ảnh minh họa)

Kiêng kỵ đối với bài tứ vật thang

Hai vị xuyên khung, đương quy trong bài thuốc có tính "động" là "dương vị", dùng để điều khí trong huyết; hai vị thục, thược có tính "tĩnh" là "âm vị", dùng để bổ huyết. Nếu người bệnh mắc chứng âm quá hư yếu thì nên bỏ cả hai vị khung, quy; còn nếu dương quá suy thì nên dùng thêm khương, quế.

Ở những người bị mất máu nhiều sắp nguy đến tính mạng thì không dùng bài thuốc này, phải dùng bài có sâm, kỳ. Người tỳ vị quá hư yếu cũng không được dùng bài này. Vị xuyên khung có tính hành khí nên liều lượng phải vừa phải, tùy trường hợp không nên dùng nhiều và kéo dài. Người bị sản hậu dùng bạch thược phải được tẩm rượu, sao kỹ.

Bài thuốc Tứ vật thang gia giảm

Tùy theo thể bệnh mà thầy thuốc có thể gia giảm thêm các vị thuốc cho phù hợp:

– Động thai gia giảm thêm Ngải diệp, A giao

– Băng lậu mất nhiều máu, hư­ hàn gia: A giao, Ngải diệp, Cam thảo.

– Huyết hàn, trong kỳ kinh có đau lưng, đau bụng gia: Can khương, Quế chi, Ngô thù, Chỉ xác, Hương phụ, Tang ký sinh, Tục đoạn để ôn trung tán hàn, lý khí, hành huyết, chỉ thống.

– Huyết ứ gia: Đan sâm, Hồng hoa, Đào nhân để trục ứ hành huyết.

– Huyết hư­ có uất nhiệt gia: Hoàng cầm, Đan bì để thanh nhiệt uất ở can.

– Khí hư­ không nhiếp huyết gia: Đảng sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật để bổ tỳ, nhiếp huyết.

– Kinh trước kỳ lượng nhiều, sắc nhợt, chân tay yếu, ngư­ời mệt tinh thần ế oải gia: Nhân sâm, Hoàng kỳ để ích khí nhiếp huyết.

– Kinh trước kỳ, lượng nhiều, sắc đậm đặc dính, hoặc có máu cục đau bụng, chướng bụng gia: Đào nhân, Hồng hoa để hoạt huyết trục ứ.