1. Huyết ứ là gì, vì sao sinh bệnh?

Trong Đông y, huyết là “vật chất căn bản” nuôi tạng phủ, kinh lạc; khí là “soái” thúc đẩy huyết vận hành. Khi khí cơ bế tắc, ngoại tà phạm mạch, sang chấn, hàn ngưng, nhiệt kết, đàm trọc ủng tắc, hoặc huyết hư không vận chuyển đều có thể dẫn tới huyết ứ. Hệ quả là “thống tắc bất thông, thông tắc bất thống”: đau cố định, châm chích cự án; sắc diện ám tối; lưỡi tía hoặc có điểm ứ; mạch sáp.

 Về cơ chế bệnh sinh, hư - thực đan xen:

- Thực: ứ trệ ở mạch đạo, vi tuần hoàn đình trệ.

- Hư: huyết hư làm lực đẩy suy giảm; dương hư khiến vận hành yếu ớt; âm dịch tổn thương làm mạch đạo khô sáp.

Cho nên trị ứ không chỉ “phá” - mà còn phải “hành nhi bất hao” (làm cho chạy mà không làm hao), đồng thời “bổ nhi bất nê” (bổ mà không trệ) - đó là cốt tủy điều trị lâu dài, an toàn.

2. Hệ hình trị ứ của Đông y: Trục ứ thang theo vùng - từ thượng tiêu đến hạ tiêu

Danh y Vương Thanh Nhiệm (Trung Quốc, thời Thanh) kiến lập hệ phương Ngũ đại Trục ứ thang, lấy đào nhân - hồng hoa - xuyên khung - đương quy - xích thược làm hạch tâm “hoạt huyết hóa ứ”, nhưng định vị theo vùng:

- Huyết phủ trục ứ thang: khu trú hung cách (ngực - cơ hoành); ứng dụng đau thắt ngực, hậu chấn thương sọ não có ứ. Lý pháp: hoạt huyết giải ứ, lý khí thông phủ, thanh nhiệt trừ phiền - vừa “khai” vừa “hòa”.

- Thông khiếu hoạt huyết thang: đích vào đầu - diện - khiếu; dùng khi ứ trệ đầu mặt, hậu di chứng mạch não. Ý trọng “thăng thanh, thông khiếu, hành huyết lên thượng tiêu”.

- Cách hạ trục ứ thang: sở trường trung tiêu - dưới cơ hoành; ứng dụng gan - tỳ - vị ứ trệ. Phối vị vừa hoạt huyết, vừa sơ can lý khí, tán kết.

- Thiểu phúc trục ứ thang: chuyên hạ tiêu - khung chậu; thống kinh, hàn ngưng tử cung, ứ huyết bào cung. Ôn kinh, tán hàn, hoạt ứ - đi thẳng vào “huyết hải”.

- Thân thống trục ứ thang: hành ở kinh lạc cơ - cốt - chi thể; ứng dụng tý chứng, đau dây thần kinh, cơ - xương - khớp. Pháp “hoạt huyết thông lạc, khứ ứ chỉ thống”.

Tinh hoa chung: định vùng - định pháp - định dược. Bài thuốc “đi đúng nơi tắc”, nên hiệu lực rõ mà ít tổn thương chính khí nếu dùng đúng biện chứng (lưỡi tía, mạch sáp, đau cố định…).

3. Nguyên tắc trị ứ bền vững: “Hoạt trung hữu bổ, bổ trung hữu hoạt”

Huyết ứ nhiều khi bắt nguồn từ hư (khí hư vận không nổi huyết; huyết hư không dưỡng mạch), càng “phá - trục” đơn thuần càng dễ hao huyết, thương chính. Kinh nghiệm lâm sàng bền vững dựa trên hai trụ cột:

- Hoạt mà không hao: dùng hành huyết phối dưỡng huyết, kèm lý khí cho huyết dễ hành.

- Bổ mà không nê trệ: dùng bổ huyết - tư âm nhưng kèm hành khí - hoạt huyết để tránh “bổ vào mà càng trệ”.

Đó là lý do khi vận dụng lâu dài cho chứng huyết hư kiêm ứ (đau đầu hoa mắt, trí nhớ giảm, tê bì, nhức mỏi, sắc mặt sạm ám, mất ngủ hồi hộp…), ta cần công thức vừa hoạt - vừa bổ - vừa thông.

4. Hoạt Huyết Thông Mạch P/H: hiện đại hóa nguyên tắc “hành nhi bất hao, bổ nhi bất nê”

Thuốc Hoạt huyết thông mạch P/H là thuốc điều trị đã được Bộ Y tế cấp phép, không phải thực phẩm chức năng.

Bước từ lý luận vào chế phẩm, Hoạt Huyết Thông Mạch P/H là một triển khai có chủ ý của tư tưởng nói trên, với cấu trúc quân - thần - tá - sứ rõ ràng, hướng tới thông mạch toàn thân (từ trên xuống dưới):

Thành phần 250 ml cao lỏng (chiết từ 142 g dược liệu đã chế biến):

- Quân: Đương quy 36 g + Thục địa 30 g → bổ huyết dưỡng âm, “sinh tân bổ huyết” để hành mà không hao huyết.

- Thần: Xuyên khung 12 g + Ngưu tất 24 g → hành khí hoạt huyết, thông lạc, trong đó xuyên khung thiện hành thượng tiêu - đầu mặt, ngưu tất lại dẫn huyết hạ hành, tạo trục từ trên xuống dưới để thông mạch toàn tuyến.

- Tá: Bạch thược 10 g → dưỡng huyết liễm âm, nhu can chỉ thống, “nhu dĩ hành cương”, giảm táo sáp khi hành ứ lâu ngày; Ích mẫu (cao đặc ~30 g dược liệu) → hoạt huyết, lợi thủy, giúp “khứ ứ bất tụ”, giảm ứ thủy - ứ huyết tương sinh.

- Sứ: Ngưu tất kiêm dẫn kinh hạ hành, điều hòa quy kinh, tạo đường ray tuần hoàn từ thượng - trung - hạ tiêu.

Ý nghĩa phối ngũ

- Hoạt mà không hao huyết: vì có đương quy - thục địa - bạch thược “dưỡng huyết làm gốc”, nên khi xuyên khung - ngưu tất - ích mẫu “hành ứ”, huyết mới được sinh - được dưỡng, tránh bào hao.

- Bổ mà không nê trệ: vì song hành lý khí - hoạt huyết, phần bổ không gây “trệ - nệ - khó vận”.

- Thông mạch từ trên xuống dưới: xuyên khung mở “cửa thượng tiêu” (đầu - não), đương quy - bạch thược - thục địa dưỡng mạch trung tiêu, ngưu tất - ích mẫu mở “cửa hạ tiêu” - do đó toàn trục khí huyết được khai thông.

Dạng bào chế - quy cách - tác dụng

- Cao lỏng, chai 250 ml - hấp thu tốt, tiện dùng, phù hợp điều trị - dưỡng sinh dài ngày.

- Tác dụng: Hoạt huyết - bổ huyết - thông mạch trong mô hình huyết hư kiêm ứ.

- Ứng dụng gợi ý (theo chỉ định đã công bố): hỗ trợ các biểu hiện thiểu năng tuần hoàn não (đau đầu, hoa mắt chóng mặt, giảm trí nhớ, mất thăng bằng, sạm da, mệt mỏi), huyết hư, tê bì - nhức mỏi - đau vai gáy do khí huyết bất thông.

Lâm sàng cốt yếu: khi biểu hiện nghiêng về hư (mệt, sắc nhợt, lưỡi nhạt vi tía), dùng P/H thuận thế “bổ trong khi hành”; khi biểu hiện nghiêng về thực ứ (đau cố định, lưỡi tía sạm, mạch sáp), P/H vẫn “hành trong khi bổ”, tránh kịch liệt phá ứ gây tổn chính.

5. Đặt Hoạt Huyết Thông Mạch P/H trong bức tranh Trục ứ thang

Nếu Ngũ đại Trục ứ thang là “lưới trị ứ theo vùng” (đầu - ngực - trung tiêu - hạ tiêu - tứ chi), thì Hoạt Huyết Thông Mạch P/H là “trục dọc nuôi - hành thống nhất”:

- Thượng tiêu: xuyên khung tuyên thông đầu diện, giảm nghẽn vi tuần hoàn não.

- Trung tiêu: đương quy - bạch thược - thục địa dưỡng mạch đạo, làm “nhu” thành “thông”.

- Hạ tiêu: ngưu tất - ích mẫu khứ ứ, lợi thủy đạo, dắt huyết quy kinh xuống dưới.

Bởi vậy, thuốc Hoạt Huyết Thông Mạch P/H không thay thế các bài Trục ứ đặc trị theo vùng trong đợt cấp, nhưng thích hợp nền tảng dài ngày cho huyết hư kiêm ứ, giúp hợp nhất “hoạt - bổ - thông” trên toàn trục.

6. Sử dụng an toàn - giữ chính khí

- Biện chứng là then chốt: ưu tiên thể huyết hư kiêm ứ; đau ứ thuần thực, nhiệt thịnh cần chỉnh pháp riêng.

- Thận trọng: vì có ích mẫu, phụ nữ có thai không dùng; người đang hành kinh nhiều cân nhắc.

- Người dùng thuốc chống đông/kháng tiểu cầu nên hỏi bác sĩ.

- Đây là sản phẩm bổ huyết - hoạt huyết, không thay thế cấp cứu tim - não; dùng theo hướng dẫn chuyên môn.

“Trị ứ tất hành huyết, hành huyết tất hành khí; hành nhi bất hao, bổ nhi bất nê” là nguyên lý vàng để chăm sóc bệnh cảnh huyết hư kiêm ứ. Hệ phương Trục ứ thang của Vương Thanh Nhiệm (Trung Quốc) cho ta bản đồ “trị ứ theo vùng”. Hoạt Huyết Thông Mạch P/H hiện đại hóa nguyên tắc ấy thành một trục dọc hoạt - bổ - thông: hoạt huyết mà không hao huyết, bổ huyết mà không nê trệ, dưỡng chính khí trong khi hành ứ, và thông mạch từ trên xuống dưới.