Cỏ xước: Thảo dược giúp bồi bổ khí huyết, chống xơ vữa động mạch
Cỏ xước là một loại cỏ dại và là một vị thuốc được sử dụng phổ biến trong Đông y để chữa bệnh. Đặc biệt, thuốc có khả năng giảm đau nhức xương khớp và điều trị sỏi rất hiệu quả.
Cỏ xước là một loại cỏ dại và là một vị thuốc được sử dụng phổ biến trong Đông y để chữa bệnh. Đặc biệt, thuốc có khả năng giảm đau nhức xương khớp và điều trị sỏi rất hiệu quả.
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Cỏ xước
Tên khác: Cây ngưu tất, Bách bội, Ngưu kinh, Hoài ngưu tất, Cây bách bội, Hồng ngưu tất, Ngưu tịch, Cỏ xước, Ngưu tất nam, Nhả khoanh ngù (Tài), Cỏ nhả lìn ngu (Thái), Hà ngù.
Tên khoa học: Achyranthes aspera L.
Đặc điểm tự nhiên
Cây Cỏ xước là một loài thực vật thân thảo, mảnh, hơi vuông, sống nhiều năm. Cây có chiều cao dao động từ 1 – 2 m, có lông mềm bao phủ quanh thân. Rễ màu vàng, hình trụ dài, khá nhỏ, bé dần từ cổ rễ đến chóp rễ, đường kính chừng 2 - 5 mm, dài 20 cm. Mặt ngoài màu nâu nhạt, nhẵn đôi khi hơi nhăn, có vết sần của rễ con.
Lá mọc đối, nhọn ở đầu, kích thước khoảng 2 – 4 cm bề ngang và 5 – 12 cm chiều dài. Trên lá có phiến hình trứng, mọc đối, mép nguyên lượn sóng, có cuống nhỏ.
Hoa mọc thành cụm, chiều dài cả chùm bông khoảng 20 – 30 cm. Hoa nhỏ, đều, lưỡng tính, mẫu 5, không có cánh hoa, có 1 lá bắc và 2 lá bắc con. Lá bắc rải rác có lông dài màu trắng, một gân dọc nổi rõ ở giữa. Bông hoa có thể phát triển từ kẽ lá hoặc ngay đầu cành. Lá đài 5, hơi không đều, rời, hình bầu dục thuôn nhọn. Nhị 5, nhị lép có nhiều tua viền ở đầu. Bầu hình trụ.
Quả dạng quả nang, dài 2 - 3 mm, màu nâu, có thành mỏng dính vào hạt. Lá bắc nhọn giống gai, dễ bám vào vật khác như quần áo. Hạt hình trứng nhỏ và dài, dày 1 mm.
Cỏ xước còn có tên khác là ngưu tất
Phân bố, thu hái, chế biến
Trên thế giới, Cỏ xước là cây của vùng nhiệt đới. Cây phân bố ở Lào, Campuchia, Thái Lan,… Ở Việt Nam, cây phân bố rải rác ở các tỉnh đồng bằng, trung du, thường thấy ở ven đường, bờ sông, bãi cỏ, bờ bụi, quanh vườn nhà,…
Là cây ưa ẩm, ưa sáng, hơi chịu bóng, thường mọc ở nơi đất ẩm ven đường, quanh vườn và bãi hoang, ưa đất ẩm, nhiều mùn. Cây mọc từ hạt từ cuối mùa xuân, sinh trưởng nhanh vào mùa hè. Quả có lá bắc tồn tại, nhờ gió phát tán đi khắp nơi. Hoa có móc, thường móc, dính vào quần áo những người làm lườn, người đi đường.
Cây mọc hàng năm, phát triển mạnh từ tháng 2 đến tháng 10 hàng năm. Thu hoạch quanh năm. Cả cây được đem về rửa sạch, cắt riêng phần rễ, thân , lá, thái mỏng rồi đem phơi hoặc sấy khô.
Trường hợp chỉ thu hoạch rễ, vụ thu hoạch chủ yếu là vào mùa đông. Lúc này thân và lá đang héo khô và rễ đã phình to. Rễ cây được đào lên, cắt bỏ rễ nhỏ. Phơi rễ cho đến khi vỏ ngoài nhăn lại rồi hun khói vài lần với lưu huỳnh. Cuối cùng, cắt bỏ phần đầu nhọn của rễ, thái lát mỏng, phơi khô.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận sử dụng làm thuốc là thân, lá và rễ cây. Người ta thường đào cả cây đem về rửa sạch, hong khô và cắt khúc nhỏ. Sử dụng cây Cỏ xước sẽ giúp cho cơ thể tăng bài thải chất độc, lọc thận, lợi tiểu. Đặc biệt, trà làm từ cỏ xước rất dễ sử dụng, thơm ngon bổ dưỡng, tăng cường sức đề kháng cho người bệnh.
Toàn cây, đặc biệt là thân và rễ được sử dụng làm thuốc.
Bộ phận dùng: Toàn thân cây. Trong đó, phần rễ được sử dụng làm thuốc chữa bệnh nhiều nhất.
Thành phần hoá học
Cây Cỏ xước có rất nhiều chất dinh dưỡng. Rễ Cỏ xước chứa hoạt chất saponin. Ngoài ra còn có ecdysteron, achiranthin, glucose, galactose và muối kali. Saponin là hợp chất có nhiều trong rau và thảo dược, tác dụng chính của saponin là làm giảm cholesterol, giảm nguy cơ ung thư, tăng cường sức đề kháng của hệ miễn dịch và đóng vai trò như một chất chống oxy hóa.
Công dụng
Theo y học cổ truyền
Vị đắng, chua, trung tính, không độc.
Kinh lạc đi vào kinh lạc thận và thận.
Công hiệu: Thanh nhiệt giải độc, bồi bổ cơ thể. Ngoài ra, Cỏ xước còn có khả năng tiêu viêm, bồi bổ khí huyết, giảm đau nhức xương khớp, chống xơ vữa động mạch…
Theo y học hiện đại
Tăng tổng hợp protein trong cơ thể.
Thí nghiệm trên ếch cho thấy dịch chiết cồn của cỏ xước ức chế tim ếch, làm giãn mạch, do đó có tác dụng hạ huyết áp. Ngoài ra, hoạt chất ecdysterone có trong châu chấu cũng thể hiện rõ đặc tính khử chất béo và glucose.
Hoạt chất saponin trong thuốc nam có tác dụng kích thích sự co bóp của cơ trơn tử cung.
Thành phần ecdysterone là chất chống thụ thai, ảnh hưởng đến sinh sản
Chống viêm, giảm đau, tăng cường hệ thống miễn dịch của con người.
Liều dùng & cách dùng
Cỏ xước có thể được sử dụng theo nhiều cách khác nhau tùy theo mục đích sử dụng và từng loại thuốc. Thuốc thường được dùng dưới dạng thuốc hoặc tươi bôi ngoài da, ngâm rượu. Nó là một loại thuốc thảo dược không độc hại.
Liều dùng:
Dạng đắp ngoài da: Không kể liều lượng.
Dạng thuốc sắc: 12-40g.
Bài thuốc dân gian có dùng cỏ xước
Điều trị hỗ trợ bệnh thấp khớp
Rễ cỏ tranh 40g, Hà thủ ô 28g, Thổ phục linh 20g, Cỏ nhọ nồi 16g, Ngải cứu 12g, Thương nhĩ tử 12g. Sắc đặc sắc uống ngày 1 thang, uống liên tục 7 - 10 ngày.
Hoặc Cỏ xước, Thân vòi voi, Kim ngân hoa, Địa linh phục sinh, Hy thiêm, Ké đầu ngựa, Bản cáo thiên niên kỷ, Cây xấu hổ, Cây đau xương và Cây gai. Được chế biến thành rượu cao cấp và rượu thuốc.
Hoặc lấy Rễ cỏ tranh 16g, Thanh bì 12g, Thương truật 12g. Viên nang chia 2 lần uống trong ngày.
Hỗ trợ kinh nguyệt không đều, huyết ứ
20g Rễ đinh lăng, Bối mẫu, Ích mẫu, Nghệ xanh mỗi vị 16g, Xích thược, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày 1 thang.
Điều trị hỗ trợ sỏi niệu quản
12g Rễ cỏ tranh, 50g Cỏ nhọ nồi, 30g hoa Anh thảo, lá dứa, 30g Thảo quyết minh, 20g Ngải cứu, 16g Vôi tôi, 16g cỏ nhọ nồi, đồ uống màu.
Cách ngâm rượu Cỏ xước
Ngoài dùng dưới dạng thuốc sắc, rễ Cỏ tranh ngâm rượu còn có thể dùng để chữa đau nhức xương khớp. Ngâm 1kg củ khô với khoảng 5l rượu và ngâm trong 1 tháng.
Kiêng kị
Quá mẫn với bất kỳ thành phần nào của thuốc.
Phụ nữ có thai, phụ nữ đang cho con bú và trẻ em nên thận trọng khi sử dụng.
Người bị bệnh dạ dày, đường ruột có thể gặp các tác dụng phụ như đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy… Không thích hợp sử dụng.