Công dụng trị bệnh của rễ ngưu tất
Ngưu tất là loại cây thảo, họ rau dền. Rễ ngưu tất được sử dụng rộng rãi trong các bài thuốc của y học cổ truyền, có tác dụng hỗ trợ chống viêm, giảm đau, hỗ trợ trị phong tê thấp, bí tiểu, viêm họng...
Ngưu tất là loại cây thảo, họ rau dền. Rễ ngưu tất được sử dụng rộng rãi trong các bài thuốc của y học cổ truyền, có tác dụng hỗ trợ chống viêm, giảm đau, hỗ trợ trị phong tê thấp, bí tiểu, viêm họng...
1. Đặc điểm cây ngưu tất
- Ngưu tất có tên khác là hoài ngưu tất. Tên khoa học Achyranthes bidenta Blume; Họ rau dền.
- Ngưu tất có rễ chính hình trụ dài và những rễ phụ to. Thân có cạnh, phình ở mấu, màu lục hoặc nâu tía. Lá mọc đối, hai mặt nhẵn, mép nguyên uốn lượn, gân lá thường có màu nâu tía ở mặt trên.
- Cụm hoa mọc ở kẽ lá và ngọn thân thành bông dài. Hoa mọc chúc xuống áp sát vào cuống của cụm hoa, bao hoa gồm 5 lá đài, 5 nhị dính nhau, bầu hình trứng. Quả hình bầu dục, có 1 hạt.
Ngưu tất còn được gọi là cỏ xước
2. Vị thuốc ngưu tất - Cách dùng ngưu tất
Để làm thuốc, thu hoạch rễ ngưu tất khi cây bắt đầu tàn lụi vào tháng 11 đến tháng 1, rửa sạch, cắt bỏ phần gốc thân và rễ con, phơi sấy khô hoặc xông diêm sinh cho mềm trong một ngày, một đêm. Khi dùng, để sống hoặc tẩm rượu, sao vàng.
Theo đông y, ngưu tất tính bình, vị chua, đắng, vào 2 kinh can và thận.
- Dùng sống (rễ ngưu tất, rửa sạch, để ráo nước, thái mỏng, sấy khô) có tác dụng lợi thấp, hỗ trợ chữa tiểu rắt, tiểu ra máu, cổ họng sưng đau, trị vết thương phần mềm, ứ huyết, bầm tím.
- Dùng chín (rễ ngưu tất tẩm rượu hoặc tẩm muối sao), có tác dụng bổ can (gan), ích khí, cường gân cốt, hỗ trợ chữa tê thấp, đau mình mẩy, đau lưng, chân tay co quắp.
- Dùng liều: 6-12g sắc nước uống hoặc ngâm rượu uống.
Ai không nên dùng ngưu tất?
- Cần chú ý không nên dùng cho phụ nữ có thai;
- Không dùng cho những người mộng tinh, hoạt tinh;
- Không dùng trong trường hợp băng kinh, lượng kinh nguyệt nhiều.
- Hỗ trợ chữa bệnh các bộ phận ở hạ tiêu thì dùng dược liệu ngưu tất không qua chế biến. Khi sao rượu, trích nước muối hoặc tẩm rượu rồi chưng thì có tác dụng bổ dưỡng.
3. Thành phần hóa học của ngưu tất
Vị thuốc ngưu tất chứa saponin toàn phần, acid oleanolic, ecdysteron, inokosteron, polysaccharid, betain, emodin rutin và nhiều chất khác.
Cao ngưu tất có tác dụng hỗ trợ hạ huyết áp, tác dụng lợi niệu, kích thích tăng co bóp tử cung của chó và thỏ.
4. Công dụng của ngưu tất đối với các bệnh mạn tính
- Ngưu tất có công dụng thông kinh, hoạt huyết. Trong các trường hợp bế kinh, kinh nguyệt không đều, có thể dùng ngưu tất kết hợp với đào nhân, tô mộc, hương phụ.
- Hỗ trợ điều trị các bệnh đau khớp, đau xương sống, đặc biệt đối với khớp của chân. Nếu đau xương khớp mà thiên về hư hàn (lạnh) thì phối hợp với quế chi, cẩu tích, tục đoạn. Nếu đau xương khớp thiên về nhiệt (nóng) thì phối hợp với hoàng bá.
- Hỗ trợ điều trị trong các trường hợp hỏa độc bốc lên gây nôn ra máu, chảy máu cam phối hợp với thuốc tư âm giáng hỏa và thuốc chỉ huyết. Ngoài ra vị thuốc ngưu tất còn được dùng hỗ trợ trong các trường hợp sỏi tiết niệu, viêm bàng quang, tăng huyết áp, mỡ máu cao.
Ngoài cây ngưu tất nói trên, nhân dân còn dùng rễ cây cỏ xước, cây mọc hoang ở nhiều nơi hỗ trợ chữa đau khớp thông kinh, thanh nhiệt hầu họng, hỗ trợ trị viêm amidan và bệnh bạch hầu.
5. Bài thuốc dân gian có ngưu tất
- Hỗ trợ chữa tê thấp, đau lưng ở người cao tuổi: Ngưu tất 12g, tỳ giải 12g , độc lực (đơn châu chấu) 16g, thiên niên kiện 8g. Tất cả thái mỏng, phơi khô, ngâm rượu. Ngày uống hai lần, mỗi lần một chén nhỏ 10ml.
- Chữa bí tiểu tiện ở người cao tuổi: Ngưu tất 12g, thục địa 12g, xa tiền tử 12g, hoài sơn 12g, trạch tả 8g, đan bì 8g, phục linh 8g, sơn thù 8g, phụ tử chế 8g, nhục quế 4g. Tất cả thái nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml, ngày uống hai lần.
- Nước sắc ngưu tất tốt cho người viêm họng, mất tiếng, ho lâu ngày: Ngưu tất 20g, cam thảo10g. Sắc uống như trà.
- Cải thiện bệnh xương khớp: Hỗ trợ chữa đau thắt lưng, đau các khớp xương, chân tay co quắt, sưng đầu gối, gân cốt vô lực, lạnh buốt tứ chi... có thể dùng 1 trong số phương dược sau:
+ Ngưu tất 250g, địa hoàng 250g, ngâm với rượu trắng 1000ml. Uống ngày 2 lần, mỗi lần 20ml.
+ Ngưu tất 20g, hoàng kỳ 20g, nhục quế 15g, nhân sâm 20g, xuyên khung 20g, sinh địa 15g, nhục thung dung 25g, ba kích thiên 20g, ngũ vị tử 20g, hải phong đằng 10g, ngũ gia bì 25g, phụ tử chế 20g, xuyên tiêu 15g, phòng phong 25g, gừng tươi 30g. Tất cả giã nhỏ ngâm với 15 lít rượu trắng, ngày 1-2 lần, mỗi lần uống 10-20ml.
+ Ngưu tất 95g, sinh địa hoàng 95g, đậu đen 95g. Đậu đen rang chín, ngưu tất, sinh địa nghiền nát, trộn đều với đậu đen, hấp chín, lấy vải bọc lại, ngâm với 1,5 lít rượu. Ngày uống 2 lần, trước bữa ăn, mỗi lần 10-20ml.